Vấn đề năm 2000 của hệ thống máy tính được gọi tắt là Y2K. Nó chỉ có các hệ thống ứng dụng sử dụng chip điều khiển chương trình số hóa và hệ thống phần cứng, phần mềm trong máy tính từ chỗ chỉ áp dụng con số hai hàng số của hệ đếm 10 để chỉ năm, khi thời gian đi từ ngày 31 tháng 12 năm 1999 sang ngày 1 tháng 1 năm 2000 sẽ trùng với số 00 chỉ năm 1900. Bởi thế mà hệ thống điều hành của máy tính sẽ nhận nhầm là 1 tháng 1 năm 1900, và sẽ gây tổn thất cho hệ thống tính toán thời gian ngày tháng năm, dẫn tới những vấn đề về kĩ thuật, chính trị, kinh tế, pháp luật. Nó cũng gây tổn thất cực lớn cho ngành ngân hàng và quân sự. Vì vậy, cần phải giải quyết sự cố này trước khi bước vào thế kỷ XXI.
Để giành tài nguyên bộ nhớ quý báu, đặc biệt là tài nguyên bộ nhớ trong nhiều hơn cho chương trình ứng dụng khác, các kĩ sư máy tính đã nghĩ mọi cách để tiết kiệm sự tiêu phí hệ thống.
Và do lúc đó chỉ nghĩ tới tình hình thế kỷ XX mà hai hằng số dùng trong hiển thị năm 19 bị coi là thừa. Hơn nữa nếu biểu thị năm bằng bốn hàng số của hệ đếm 10 thì sẽ choán mất nhiều không gian lưu trữ. Theo tính toán của các nhà chuyên môn, trong ứng dụng máy tính chính phủ thời trước của nước Mỹ, nếu ghi năm bằng đầy đủ 4 con số theo phép đếm thập phân) thì trong 100 MB của văn kiện ghi chép phải tăng thêm không gian lưu trữ 100 MB nữa, theo giá tiền bộ nhớ lúc đó phải tiêu phí khoảng 100.000 – 130.000 USD.
Phạm vi ứng dụng của máy tính thời đó không rộng rãi như ngày nay, chủ yếu dùng cho chính phủ, cơ quan nghiên cứu và các học viện. Hoặc chủ yếu dùng cho việc xử lí công việc sự vụ rất hạn chế và các công việc khoa học, tính toán công trình. Lúc đó còn cách xa năm 2000 tới hơn 30 năm. Những người lập trình phần mềm cho rằng các chương trình mà họ tạo lập đến năm 2000 chắc chắn đã bị thay thế bởi chương trình mới. Dù có vấn đề thì hẵng cứ để đấy, những nhà lập trình và các nhà thiết kế hệ thống phần cứng sau này sẽ giải quyết. Bởi vậy mà họ đã dùng hai con số cuối để biểu thị năm. Do kĩ thuật máy tính phát triển nhanh chóng, những thiết kế năm xưa không ai cho là có vấn đề gì cả. Về việc dùng con số hai hàng cuối của hệ đếm 10 để chỉ năm trong các phần cứng phần mềm của hệ thống máy tính như siêu máy tính, máy tính chủ, máy tính mini và máy vi tính, do có sự tương tiếp của chương trình và ứng dụng mà cứ kéo dài mãi, thành tiêu chuẩn được thừa nhận.
Tiêu chí Đánh Giá Chất Lượng Hạt Nhựa Nguyên Sinh Trước Khi Sản Xuất
Hạt nhựa nguyên sinh là nguyên liệu cơ bản và quan trọng trong nhiều ngành công nghiệp, từ sản xuất đồ gia dụng đến ngành công nghiệp ô tô và điện tử. Để đảm bảo chất lượng sản phẩm cuối cùng, việc đánh giá chất lượng hạt nhựa nguyên sinh trước khi sản xuất là điều cực kỳ quan trọng. Dưới đây là các tiêu chí chính để đánh giá chất lượng của hạt nhựa nguyên sinh:
• Tính đồng nhất (Uniformity):
Tính đồng nhất của hạt nhựa nguyên sinh là một yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm. Hạt nhựa cần phải có kích thước, hình dạng và màu sắc đồng đều để tránh các vấn đề trong quá trình sản xuất và đảm bảo tính thẩm mỹ của sản phẩm cuối cùng. Đánh giá tính đồng nhất thường được thực hiện bằng cách kiểm tra kích thước hạt bằng thiết bị phân tích hoặc qua mẫu thử ngẫu nhiên.
• Độ sạch (Purity):
Hạt nhựa nguyên sinh phải đạt tiêu chuẩn về độ sạch, không chứa tạp chất, bụi bẩn hay các chất phụ gia không mong muốn. Độ sạch của hạt nhựa có thể ảnh hưởng trực tiếp đến độ bền và tính ổn định của sản phẩm cuối cùng. Đánh giá độ sạch thường bao gồm các xét nghiệm hóa học và vật lý để xác định mức độ tạp chất có trong hạt nhựa.
• Đặc tính cơ học (Mechanical Properties):
Đặc tính cơ học của hạt nhựa nguyên sinh như độ bền kéo, độ cứng và khả năng chống va đập là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Các chỉ tiêu này có thể được đo bằng cách thực hiện các bài kiểm tra cơ học tiêu chuẩn như kiểm tra độ bền kéo, độ cứng và độ dẻo dai.
• Tính chảy (Flowability):
Tính chảy của hạt nhựa là một yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo quy trình sản xuất diễn ra suôn sẻ. Hạt nhựa phải có khả năng chảy tốt khi bị gia nhiệt để đảm bảo chúng có thể được xử lý dễ dàng trong các máy móc. Kiểm tra tính chảy của hạt nhựa có thể được thực hiện bằng cách đo chỉ số chảy (MFI – Melt Flow Index) của hạt nhựa.
• Độ ẩm (Moisture Content):
Độ ẩm của hạt nhựa nguyên sinh cần phải được kiểm soát chặt chẽ, vì độ ẩm quá cao có thể ảnh hưởng đến quá trình chế biến và chất lượng của sản phẩm cuối cùng. Đo độ ẩm thường được thực hiện bằng các phương pháp như cân và sấy hoặc sử dụng thiết bị đo độ ẩm chuyên dụng.
• Tính tương thích (Compatibility):
Hạt nhựa nguyên sinh cần phải tương thích với các thành phần khác trong quy trình sản xuất. Tính tương thích của hạt nhựa được kiểm tra bằng cách thực hiện các thử nghiệm phối hợp với các vật liệu khác để đảm bảo chúng không gây ra phản ứng không mong muốn hoặc ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
• Chứng nhận và tiêu chuẩn (Certification and Standards):
Cuối cùng, hạt nhựa nguyên sinh cần phải đáp ứng các chứng nhận và tiêu chuẩn quốc tế hoặc quốc gia về chất lượng và an toàn. Việc tuân thủ các tiêu chuẩn này không chỉ giúp đảm bảo chất lượng sản phẩm mà còn giúp doanh nghiệp tuân thủ các quy định pháp lý.
Đánh giá chất lượng hạt nhựa nguyên sinh trước khi sản xuất là một bước quan trọng để đảm bảo sản phẩm cuối cùng đạt tiêu chuẩn về chất lượng và hiệu suất. Các tiêu chí như tính đồng nhất, độ sạch, đặc tính cơ học, tính chảy, độ ẩm, tính tương thích và chứng nhận tiêu chuẩn cần được kiểm tra kỹ lưỡng để đảm bảo rằng hạt nhựa đáp ứng yêu cầu sản xuất và mang lại hiệu quả tối ưu. Khi lựa chọn hạt nhựa nguyên sinh, hãy luôn chú trọng đến các tiêu chí này để đảm bảo thành công trong sản xuất và chất lượng sản phẩm cuối cùng.
hạt nhựa nguyên sinh